Thứ Năm, 27 tháng 10, 2011

Sử liệu gợi ý chủ đề “SÁNG TÁC” Việt Sử Ca

Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa lập nên Triều đình Lĩnh Nam làm khiếp đảm vua quan nhà Hán hùng mạnh là một sự kiện vô cùng độc đáo trong lịch sử nhân loại.

Sử gia Lê Văn Hưu viết:
Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương.

Sử gia Ngô Sĩ Liên viết:
Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước ta cơ hồ được khôi phục, khí khái anh hùng há chỉ lúc sống dựng nước xưng vương, mà sau khi chết còn có thể chống ngăn tai họa. Phàm gặp những việc tai ương hạn lụt, đến cầu đảo không việc gì là không linh ứng... Vì là đàn bà mà có đức hạnh kẻ sĩ, cái khí hùng dũng trong khoảng trời đất không vì thân chết mà kém đi. Bọn đại trượng phu há chẳng nên nuôi lấy cái khí phách cương trực chính đại ấy ư?

Dưới trướng Hai Bà Trưng có đến hơn trăm tướng lĩnh đại tài, hiện còn nhiều đền thờ lập Thành hoàng làng ở miền Bắc. Có nhiều câu đối ca ngợi tại các đền thờ như:

Hiệp tán Trưng vương, khuynh Bắc quốc
Đồng trừ Tô tặc, trấn Nam bang.
Nghĩa là:
Hợp giúp Trưng vương, nghiêng nước Bắc (Trung nguyên)
Đồng trừ giặc Tô, giữ trời Nam.

Dưới đây là một số tướng tiêu biểu:

Thánh Thiên - nữ tướng anh hùng. Tài kiêm văn võ, được Trưng Vương phong là Thánh Thiên Công chúa, giữ chức Bình Ngô đại tướng quân, thống lĩnh binh mã trấn thủ vùng Nam Hải (Hải Nam). Hiện có đền thờ ở Ngọc Lâm, Yên Dũng, Bắc Ninh.
Câu đối ở đền thờ Thánh Thiên:
Thực hào kiệt, thực anh hùng, những khi giúp đỡ vua Trưng,
mặt nước sông Thương, gươm báu trăng lồng còn lấp lánh.

Còn bâng khuâng, còn phảng phất, sau lúc đuổi tan giặc Hán,
cành hoa bến Ngọc, vòng tay thơm nức vẫn còn đây.

Hoàng Thiều Hoa - Tiên phong nữ tướng. Được Trưng Vương phong là Đông Cung công chúa giữ chức Tiên phong hữu tướng. Hiện ở xã Hiền Quan, Tam Nông, Phú Thọ có miếu thờ.

Hồ Đề - Phó Nguyên soái. Được Trưng Vương phong là Đề Nương công chúa lãnh chức Phó nguyên soái, Trấn Viễn đại tướng quân. Đình Đông Cao, Yên Lập (Phú Thọ) thờ Hồ Đề.

Phương Dung - nữ tướng. Được Trưng Vương Sắc phong Đăng Châu công chúa. Lĩnh ấn Trấn nam đại tướng quân. Thống lĩnh đạo binh Giao Chỉ.
Bài thơ ca ngợi công đức vợ chồng Bắc Bình Vương Đào Kỳ - Phương Dung tại Cổ Loa:
Sinh vi lương tướng, tử vi thần,
Vạn cổ cương thường, hệ thử nhân,
Loa địa song đôi thuy nguyệt ảnh.
Anh hùng liệt nữ tướng quân phần.
Dịch nghĩa:
Sống là tướng giỏi, chết là thần.
Vạn đại cương thường, nặng tấm thân,
Hai mộ thành Loa trăng chiếu sáng,
Anh hùng, liệt nữ, mộ tướng quân.

Lê Chân - nữ tướng miền biển. Được Trưng Vương phong là Đông Triều công chúa, lĩnh ấn Trấn Đông đại tướng quân, thống lĩnh đạo quân Nam Hải. Hiện có đền Nghè, ở An Biên, Hải Phòng thờ.

Phật Nguyệt - Tả tướng thuỷ quân. Được Trưng Vương phong là Phật Nguyệt công chúa giữ chức Thao Giang Thượng tả tướng thuỷ quân, Chinh Bắc đại tướng quân, tổng trấn khu hồ Động đình - Trường Sa. Bà hình như không được ghi vào sử Việt Nam mà lại được ghi vào sử Trung Quốc. Hiện di tích về bà còn rất nhiều: Tại chùa Kiến Quốc thuộc Trường-sa, tại ngôi chùa trên núi Thiên Đài trong ngọn núi Ngũ Lĩnh. Bà là một nữ tướng gây kinh hoàng cho triều Hán nhất
Câu đối ở đền thờ Phật Nguyệt :
Tích trù Động đình uy trấn Hán,
Phương lưu thanh sử, lực phù Trưng.
Dịch nghĩa:
Trận đánh hồ Động đình, uy danh rung động Hán.
Tên còn ghi lại sử thơm, ra sức phò vua Trưng.

Xuân Nương, chồng là Thi Bằng em trai Thi Sách, Trưởng quản quân cơ. Được Trưng Vương phong làm Đông Cung công chúa chức Nhập nội trưởng quản quân cơ nội các. Hiện có đền thờ ở Hưng Nha (Tam Nông), Phú Thọ.
Câu đối ở đền thờ Hùng Xuân Nương:
Yểu điệu phù Trưng, trung quán nhật.
Quật cường cự Hán tiết lăng sương.
Dịch nghĩa:
Người yểu điệu phù vua Trưng, lòng trung nghĩa tranh sáng với mặt trời.
Quật cường chống giặc Hán, khí tiết thắng cả thời gian.

Nàng Quốc - Trung dũng đại tướng quân. Được Trưng Vương phong là Gia Hưng công chúa, Trung Dũng đại tướng quân, Lĩnh ấn Đô Đốc, chưởng quản thủy quân trấn bắc Nam Hải. Hiện ở Hoàng Xá, Kiêu Kỵ, Gia Lâm thờ nàng Quốc.
Câu đối ở đền thờ Trần Quốc:
Tô khấu tước bình, trực bả quần thoa đương kiếm kích,
Trưng vương dực tải, hảo tương cân quắc hộ sơn hà.
Dịch nghĩa:
Dẹp giặc Tô Định cứu dân, quyết lấy quần thoa thay kiếm kích.
Phù vua Trưng dựng nước, đem tài khăn yếm giữ non sông.
… và còn nhiều danh tướng khác chúng ta sẽ dần tìm hiểu trong bộ Đại Việt Thần Võ này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét